Sự Sung Mãn Của Đời Sống Đan Tu Chiêm Niệm


_Lm. GB. Nguyễn Hữu Thy_

Khi người ta từ cuộc sống bon chen ồn ào ở chốn thị thành bước chân vào khuôn viên một Đan Viện chiêm niệm, điều đầu tiên chắc chắn người ta sẽ cảm nhận được là cả một không gian hoàn toàn thanh vắng yên tĩnh đầy linh thiêng thánh thiện. Nhưng phải chăng sự thanh bình vắng lặng nơi chốn Đan Viện mang lại cho tâm hồn ta sự thanh thoát an bình, hay ngược lại, sẽ gây nên trong ta nỗi lo lắng sợ hãi? Để trả lời cho câu hỏi đó, Linh mục Martin Gutl (1942-1994), một văn sĩ người Áo đã phát biểu tư tưởng của ông qua bốn câu thơ như sau:

Manche fürchten sich,
sie sind ständig tätig.
Manche fürchten,
die Stille könnte sie stören.

Tạm dịch:

Nhiều người vì sợ hãi,
luôn khép mình vào công việc.
Nhiều người lại sợ hãi,
nơi thanh vắng làm họ lo!

Phải chăng chúng ta sợ sự thanh vắng chốn Đan Viện? Phải chăng vì cuộc sống nơi ấy cắt đứt hay làm gián đoạn các tương tác của ta với thế giới bên ngoài, các hoạt động của ta, các nghiên cứu khoa học của ta hay chính cuộc sống bình thường của ta?

Trong một bài thơ khác với tựa đề “Gesegnetes Nichtstun” (Sự vô vi được chúc phúc) của ông, Linh mục Martin Gutl đã viết:

Im Sterben,
wird uns die Stille
als Person begegnen.
Der eine wird sie als vertraut begrüßen,
der andere wird vor ihr erschrecken.

Tạm dịch:

Trong giờ phút lâm chung,
sự thanh vắng lại gặp ta,
như thể một ai đó.
Người thì hoan hỉ được đón chào,
kẻ lại run rẩy vì lo sợ!


Vậy, phải chăng sự thanh vắng chốn Đan Viện mang trên mình một sứ mệnh thánh thiêng, chứ không chỉ là một sự trống vắng những tiếng ồn ào náo động của cuộc sống thế nhân? Phải chăng sự thanh vắng Đan Viện là một điều quan trọng cho ta, khiến ta phải cùng nhau nỗ lực duy trì và bảo vệ nó, thực hành nó trong cuộc sống hằng ngày như một phương tiện cần thiết cho cuộc sống tâm linh, cho nỗ lực tiến đức của mình, vâng, cho nỗ lực đi tìm gặp Thiên Chúa?

Người ta sẽ đánh mất chính mình, nếu như họ không thể giữ mình thinh lặng được. Hay chính hiện tượng người ta chạy trốn chính mình là do nguyên nhân người ta không thể giữ mình thinh lặng bình tĩnh được, vâng, vì người ta không muốn giữ mình thinh lặng? “Bởi vì, nếu như người ta thực sự giữ mình thinh lặng, thì người ta sẽ gặp lại chính mình và nhìn thấy rõ được chính con người thật của mình, một điều họ không thể chấp nhận được” như lời nhận định của nhà thần học Dòng Tên thời danh Romano Guardini. Thế thì tại sao lại có bao người đã từ bỏ những ồn ào náo nhiệt của cuộc sống đời thường để đi tìm kiếm sự thanh vắng trong nơi cô tịch và luôn tiếp tục tìm cách tạo ra quanh mình một không gian thanh vắng, yên lặng?

I. TIẾNG MỜI GỌI CỦA SA MẠC


Trong suốt dòng lịch sử Kitô giáo, người ta đã tìm gặp được bao điều huyền nhiệm cao cả. Chính ngay trong thời đại khởi đầu thế kỷ IV, khi Giáo Hội Kitô giáo, sau trên dưới ba thế kỷ bị bách hại và bị đàn áp một cách khủng khiếp, đã không những được nhìn nhận như một tôn giáo hợp pháp và ngang hàng với các tôn giáo thờ thần linh khác của Roma vào lúc bấy giờ, mà còn được coi như là quốc giáo trong toàn cõi đế quốc Roma rộng lớn, thì cũng chính là lúc khởi đầu một phong trào “xuất hành” của rất nhiều các Kitô hữu mộ đạo thuộc đủ mọi thành phần trong xã hội: Họ từ bỏ cuộc sống tiện nghi tại các thành thị trong khắp đế quốc và lui vào sống trong các sa mạc, trong các nơi cô tịch, trong sự trống vắng và thiếu thốn tất cả, để thực hiện lý tưởng ẩn tu chiêm niệm. Đứng đầu phong trào ẩn tu chiệm niệm này, người ta phải kể tên nhà ẩn tu thời danh, thánh Antonius (250-356), vị Tổ Phụ đáng kính và là gương mẫu của các Đan Sĩ thuộc mọi thời đại. Thánh nhân đã tự nguyện rời bỏ quê hương của ngài ở miền Trung Ai Cập và đồng thời từ bỏ cả việc thừa hưởng gia tài kếch xù của gia đình vốn thuộc về ngài, để lui vào trong sa mạc Thebäis sống đời ẩn dật, hoàn toàn xa lánh mọi ồn ào và mời mọc quyến rũ của thế gian. Trong sa mạc không còn gì khác ngoài một mình Thiên Chúa.

Cuộc sống triệt để xa lánh mọi sinh hoạt thế tục như thế luôn là lý tưởng theo đuổi của các Đan Sĩ, đúng như lời nhận định của thánh Hieronymus: “Chốn thành thị đối với tôi là gông cùm, còn chốn cô tịch vắng lặng là thiên đàng”.[1] Đối với thánh nhân, Giáo Hội vào thời bấy giờ quá giàu có và quyền lực, nhưng lại quá nghèo nàn về đời sống đức hạnh. Đời sống Kitô giáo chân chính, các gương mẫu sống đức tin một cách sáng ngời của các Kitô hữu tiên khởi như đã được trình bày trong Công Vụ Tông Đồ cũng như dòng máu kiên cường và can đảm của các vị Tử Đạo trong thời Giáo Hội bị bắt bớ đàn áp, vào thời đại thánh nhân đã trở nên như những điều xa lạ trong một Giáo Hội không chỉ được nhìn nhận, được tự do mà còn được coi như quốc giáo với bao ưu đãi của thế quyền. Trước thái độ tìm cách thích nghi đời sống Giáo Hội với thế giới trần tục xa hoa và trước tinh thần sống đạo xuống dốc trầm trọng đến mức báo động như thế, các Đan Sĩ đã theo đuổi và hiện thực một lối sống theo đúng tinh thần Phúc Âm một cách triệt để là xa lánh thế tục với những mời mọc lôi cuốn của nó và chỉ đi tìm kiếm một mình Thiên Chúa như cứu cánh đời mình mà thôi. Bởi vậy, thánh Basilius đã từng dứt khoát khẳng định: “Những ai yêu mến Chúa, thì từ bỏ tất cả và chỉ lo bước theo Chúa mà thôi”.[2]

Sa mạc luôn là hình ảnh gợi lại cho ta nhớ đến bốn mươi ngày đêm chay tịnh của Đức Giêsu, và thái độ kiên cường bền vững của Ngài trước những cám dỗ đầy quỷ quyệt và thâm độc của một kẻ thù vô cùng gian manh xảo quyệt là ma quỷ. Nhưng nhất là sa mạc đã nhắc ta nhớ lại cuộc hành trình dài 40 năm trường trong sa mạc Sinai đầy sỏi đá và đất cát nóng bỏng của con cái Israel, Dân Tuyển Chọn của Chúa, như là trường học quan trọng và phương tiện thanh lọc cần thiết của Giao Ước, và tiếp đến là nhớ tới lời hứa của các vị Ngôn Sứ nhân danh Chúa: “Vui lên nào, hỡi sa mạc và đồng khô cỏ cháy, vùng đất hoang, hãy mừng rỡ trổ bông (…) Thiên hạ sẽ nhìn thấy ánh huy hoàng của Đức Chúa, và vẻ rực rỡ của Thiên Chúa chúng ta” (Is 35,1-3). Giờ đây, lời hứa này của các vị Ngôn Sứ như đã được hiện thực, khi các Đan Sĩ, những tâm hồn mộ đạo và thành tâm đi tìm kiếm một mình Thiên Chúa, đã cùng nhau tìm vào trong sa mạc, vào trong miền đất sỏi đá khô cằn và thiếu sự sống, để xây dựng lên đó những túp lều, hay tạo ra những cái hang trong hốc đá,.v.v… hầu để sống hoàn toàn cho một mình Chúa và ngày đêm chỉ ca ngợi Ngài mà thôi. Đó chính là nguyên nhân sự hiện hữu của hàng trăm hàng ngàn hang động chi chít của các vị ẩn tu ở miền Nitrien. Ngày nay, chính hòn đảo Athos ở Hy Lạp, mà người ta thường gọi là “quốc đảo của các Đan Sĩ”, là một hòn đảo hoàn toàn chỉ có các Đan Sĩ Chính Thống cư ngụ, chứ không có bất cứ người đời nào và tuyệt đối không có nữ giới.

Do đó, thánh Hieronymus đã có lý khi ngài hân hoan nhảy mừng: “Hỡi sa mạc, bông hoa tươi nở trong Đức Kitô! Hỡi chốn cô tịch, ngươi vui mừng hoan hỉ được tiếp cận Thiên Chúa! Người Đan Sĩ quăng bỏ gánh nặng thế gian để thong dong bay về trên Thiên quốc. Thầy là người nghèo của cải vật chất, nhưng chính Đức Kitô đã gọi người nghèo khó là người có phúc. Thầy luôn phải lao động: vì không một người lực sĩ nào muốn đạt tới được vòng hoa chiến thắng mà lại không phải đổ mồ hôi. Nhưng thầy lại không phải lo cho mình miếng cơm manh áo: vì người có đức tin thì không hề lo phải đói khát. Thầy ngủ nghỉ dưới sàn đất, nhưng Đức Kitô luôn ở bên thầy. Thầy không hề lo sợ phải sống trong cảnh cô đơn tịch liêu, vâng, thầy luôn thẳng bước trên đường tiến về Thiên đàng. Thầy không cần phải tắm rửa, vì thầy luôn được tắm gội trong Đức Kitô và do đó thầy không còn phải tắm rửa thêm nữa”.[3]

II. GIỮ THINH LẶNG VÀ VIỆC NÓI CHUYỆN


Khi sống trong sa mạc, sống trong sự cô tịch, thì chính là lúc người Đan Sĩ sống trong mầu nhiệm của sự thinh lặng. Sống mầu nhiệm sự thinh lặng đồng thời cũng là phương tiện đi sâu vào mầu nhiệm Ngôi Lời. Như vậy, sự thinh lặng chiêm niệm hoàn toàn khác biệt với tình trạng câm điếc, tức tình trạng không thể nghe và không thể nói được. Còn sự thinh lặng thì chỉ những ai có khả năng nói được mới có thể thực hiện được. Người giữ thinh lặng là người giữ được miệng lưỡi và làm thinh hay là người biết hy sinh không phát biểu, không nói và làm thinh.

Mục đích việc giữ thinh lặng của các Đan Sĩ trước hết là để lắng nghe tiếng Chúa, mà khi sống trong sự ồn ào giao động của thế gian người ta sẽ không thể nghe được, vì Chúa chỉ nói với ta trong thanh vắng của tâm hồn ta mà thôi. Tiếng Chúa là suối nguồn bất tận mà con người có thể múc lấy cho mình sức mạnh. Sự đáp trả của con người dành cho Chúa không thể chỉ là những lời nói suông và trống rỗng, nhưng phải được phát xuất từ một sự thinh lặng đầy nhận thức và đầy cảm xúc, tức từ một sự thinh lặng được ẩn chứa sự sung mãn của con tim, của tình yêu mến nồng nàn, mà lời lẽ ngôn ngữ loài người không sao diễn tả hết.

Dĩ nhiên, các nhà ẩn tu, các Đan Sĩ cũng luôn cần tới những trao đổi trong tình huynh đệ với nhau, để cùng động viên khuyên nhủ nhau cũng như để giúp nhau đào sâu thêm sự hiểu biết và kinh nghiệm trên con đường tiến đức, vâng, trên con đường tìm kiếm Chúa và hoàn thiện bản thân. Nhất là những người mới tập sự bước vào đời sống Đan Tu nhất thiết phải cần tới sự hướng dẫn và giúp đỡ của các vị cha anh đi trước. Trong thanh vắng chiêm niệm họ sẽ được đón nhận, được chăm sóc lo lắng và được thử thách rèn luyện. Những hướng dẫn chỉ bảo khôn ngoan đúng đắn và dày kinh nghiệm của các vị Tổ phụ, của các vị Bề Trên dành cho họ cần được ghi chép rõ ràng cẩn thận như là kim chỉ nam giúp họ tìm tới được lý tưởng chiêm tu, lý tưởng tìm kiếm Chúa trong sa mạc của chốn Đan Viện, của thanh vắng. Chẳng hạn thánh Athanasius đã biên chép cuộc đời thánh Antonius như là một cuộc sống gương mẫu sáng chói của người tôi tớ Chúa; thánh Gioan Casian thành Marseille vào thế kỷ V đã thu tập tất cả các lời giáo huấn đầy khôn ngoan của các vị Tổ Phụ chiêm niệm Đông Phương và đem giới thiệu cho thế giới Đan Tu Tây Phương,.v.v…!

Lòng khao khát tìm kiếm một mình Chúa, nỗ lực hoàn thiện bản thân và kiến tạo sự an bình thư thái trong Chúa cũng như thực hiện lời dạy của Thánh Tông Đồ là luôn luôn chuyên cần cầu nguyện,.v.v… luôn phải sống động trong suốt dòng lịch sử của Giáo Hội. Ở đây chúng ta không quên nhắc tới thánh Nicolaus Flüe ở Thụy Sĩ vào thế kỷ XV. Ngài là gia trưởng thánh thiện của một gia đình mười đứa con và đã cảm thấy mình được Chúa mời gọi một cách mãnh liệt sống đời ẩn tu. Chính điều này đã khiến ngài phải khắc khoải cầu nguyện và suy nghĩ giữa tiếng gọi của Chúa sống đời ẩn tu một mình trong chốn rừng sâu xa vắng và bổn phận của một gia trưởng đối với vợ con và gia đình. Sau bao năm cầu nguyện xin Chúa soi sáng, suy nghĩ kỹ càng cẩn thận và bàn hỏi với các vị Linh Hướng và nhất là với người bạn đời trăm năm ngoan hiền đạo hạnh của ngài, để biết rõ được đâu là ý Chúa, đâu là nguyện vọng cá nhân của mình và đâu là sự vẽ vời của óc tưởng tượng hay cả mưu mô thâm độc của ma quỷ, thánh nhân đã được các giáo quyền sở tại và nhất là được người bạn trăm năm cũng như cả gia đình khuyên nên đáp lại tiếng Chúa kêu mời! Và Nicolaus đã rũ bỏ tất cả để ra đi vào chốn thanh vắng, sống trong một cái túp lều bằng gỗ khoảng ba thước vuông giữa khu rừng bạt ngàn giá buốt thấu tận xương tủy, nhất là khi mùa đông về, và hằng ngày trong vòng trên dưới bốn mươi năm trời Nicolaus chỉ rước lễ, chứ không ăn uống gì cả. Và ngài thực sự đã trở thành một vị đại thánh khổ tu chiêm niệm và là người cha già của dân tộc Thụy Sĩ không phân biệt tôn giáo.

Và trong lịch sử Giáo Hội, con đường nên thánh bằng đời sống cầu nguyện chiêm niệm trong thanh vắng của thánh Nicolaus Flüe chỉ là một trong hàng ngàn hàng vạn trường hợp mà các Kitô hữu đã hiện thực.

Nói cách khác, đời sống chiêm niệm trong thanh vắng luôn nắm giữ một vai trò quan trọng bất khả thay thế trong lòng Giáo Hội, vì chính từ đời sống trong thanh vắng chiêm niệm, trong sự thân giao với Chúa qua kinh nguyện hằng ngày của các Đan Sĩ, sự thánh thiện của Giáo Hội càng trở nên rực rỡ hơn, càng trở nên hấp dẫn và có sức thuyết phục hơn đối với người đời.

III. CUỘC SỐNG ĐAN TU CỘNG ĐOÀN


Qua những dòng trình bày trên đây, chúng ta thấy rằng các vị Ẩn Tu đã đóng một vai trò quan trọng mang tính chất quyết định vào thời khởi đầu lối sống Đan Tu trong Giáo Hội và ngay trong Tu Luật Thánh Benedictus hình ảnh các vị Ẩn Tu vẫn còn được xem như là lý tưởng hấp dẫn cho những tâm hồn muốn tìm kiếm Chúa trong thanh vắng.




Tuy nhiên, để bảo đảm cho lý tưởng chiêm niệm và cầu nguyện trong thanh vắng của mình được trung thực và bền vững, chứ không bị ma quỷ lừa dối và sống theo ý riêng mình, thì theo thánh Tổ Phụ Benedictus người ta cần phải sống chung trong một cộng đoàn Đan Tu, giữa những anh em cùng đồng chí hướng chiêm tu với nhau. Vâng, các Đan Sĩ sẽ sống và hiện thực lý tưởng chiêm niệm Kitô giáo của mình ngay trong lòng cộng đoàn Đan Tu, nơi có sự hiện diện đích thực của Đức Kitô, vì Người đã khẳng định: “Ở đâu có hai hay ba người họp lại nhân danh Thầy thì Thầy ở giữa họ” (Mt 18,20). Vì thế, thánh Pachomius, một môn sinh thánh thiện của thánh Antonius và là người đầu tiên sáng lập đời sống Đan Tu cộng đoàn, đã cảm nhận được từ căn lều ẩn tu của ngài lời nhắn nhủ: “Con hãy đi và nhóm họp các bạn trẻ lại, và dạy cho họ con đường sống”.[4] Và vì thế, đã bắt đầu phát sinh hình thức sống Coenobium, hình thức sống chung thành cộng đoàn của các Đan Sĩ trong Đan Viện. Ngược lại với cuộc sống theo ý riêng mình, thì cuộc sống chung với những luật lệ nghiêm nhặt của Đan Viện sẽ mang lại cho cuộc sống các Đan Sĩ ý nghĩa và sự quân bình. Đó là luật lệ của lao động và cầu nguyện, của ăn uống và chay tịnh, cũng như của đức vâng lời.

Thánh Basilius chọn cuộc sống Đan Tu trong vùng đất thuộc văn hóa Hy Lạp và ngài đã đề cao giá trị nội tại của đời sống Đan Tu cộng đoàn và đã so sánh Cộng Đoàn các Đan Sĩ như thân mình mầu nhiệm Đức Kitô mà mỗi Đan Sĩ là một bộ phận, là một phần của thân thể đó. Như vậy, gương sống chung của các Cộng Đoàn Kitô hữu tiên khởi: “Họ chỉ còn một lòng một ý. Không một ai coi bất cứ cái gì mình có là của riêng nữa, nhưng đối với họ, mọi sự đều là của chung” (Cv 4,32) đã trở thành mẫu mực sống lý tưởng cho các Đan Sĩ và đó cũng là điều được ghi rõ trong các Luật Dòng.

Để bảo đảm và duy trì đời sống chung trong Cộng Đoàn, các Đan Sĩ phải xây dựng các nhà cửa cần thiết cho các sinh hoạt chiêm tu “Ora et Labora” của mình và được gọi là “Nhà Dòng”, “Nhà Chúa” hay là “Nhà Cầu Nguyện”. Vì theo truyền thống các Đan Viện chiêm niệm, thì các nhà cửa trong Đan Viện được xây nối liền với nhau thành hình vuông: Nhà Thờ, nhà làm việc, nhà cơm và nhà ngủ nghỉ. Đó là hình ảnh biểu tượng chính đời sống của mỗi người Đan Sĩ: Cầu nguyện, làm việc, ăn uống và nghỉ ngơi, và tất cả chỉ nhằm mục đích duy nhất là đi tìm kiếm và phụng sự một mình Thiên Chúa trong thanh vắng chiêm niệm. Một cuộc sống hoàn toàn quân bình và hợp lý.

IV. CHỐN VĨNH CƯ CỦA CÁC ĐAN SĨ


Trong các vị Tổ Phụ, những bậc Thầy dạy đời sống Đan Tu, người ta phải kể đặc biệt đến danh tính Thánh Phụ Benedictus thành Nursia, qua đời vào khoảng 547. Ngài là người đầu tiên đã khẳng định một cách đầy xác tín rằng Đan Viện là chốn vĩnh cư, là nơi cư trú thuận tiện nhất cho những ai thật lòng đi tìm kiếm phụng sự Chúa trong thanh vắng chiêm niệm. Vâng, đời sống chung trong Cộng Đoàn Đan Viện là sự chọn lựa hàng đầu của Thánh Phụ Benedictus, vị Thầy dạy đường nhân đức dày kinh nghiệm.

Vào thời thánh Benedictus, phong trào Đan Tu chiêm niệm bị ảnh hưởng rất nhiều bởi sự giao động mạnh do trào lưu di cư thay đổi chỗ ở của dân chúng và kết quả là đã gây nên ảnh hưởng tâm lý không nhỏ nơi một số các vị Ẩn Tu, khiến họ bị hoang mang giao động và dần dà sống sai lệch lý tưởng chiêm niệm của mình và chủ trương sống lang thang lưu động nay đây mai đó, theo trào lưu di cư của dân chúng. Trước tình trạng lý tưởng chiêm niệm xuống dốc và biến thể như thế, thánh Benedictus đã đề cao và chủ trương sống đời sống chiêm niệm chung trong Cộng đoàn Đan Tu. Thánh nhân đã khắt khe phê bình lối sống “chiêm niệm lưu động” của một số Đan Sĩ thời bấy giờ, những người không bao giờ muốn sống vĩnh cư tại một nơi chốn, không bao giờ chịu sống trung thành gắn bó với một Cộng Đoàn nhất định nào cả. Bởi vậy, thánh nhân muốn các Đan Sĩ của ngài, sau khi đã trải qua bao thử thách cần thiết trong một Đan Viện và đã tìm hiểu rõ ràng đầy đủ đời sống của một Đan Sĩ, phải tuyên hứa lời khấn “Vĩnh Cư”, tức luôn trung kiên bền bỉ với cộng đoàn Đan Tu của mình.

Từ đó Đan Viện trở thành dấu chỉ chống lại tất cả mọi bất an trong tâm hồn, chống lại tất cả những khuynh hướng tự nhiên của con người là “thích thì ở, dở thì bỏ đi”, một khi phải đối mặt với những khó khăn thử thách và gian nan trái ý trong cuộc sống Đan Tu, thì tìm cách cuốn gói ra đi, tìm cách thay đổi hết chỗ này sang chỗ kia.

Thực ra, theo tâm lý tự nhiên, nếu trong đời thường chúng ta càng có được nhiều điều kiện sống, càng có được nhiều sự tự do lựa chọn theo ước vọng của mình, thì chúng ta càng phải chín chắn và trưởng thành trong sự nhận thức hơn, càng phải có sự xác quyết chắc chắn hơn,.v.v… và những điều đó phải được phát xuất từ sự tự nguyện gắn bó với cộng đoàn Đan Viện của ta. Thánh Gregorius le Grand đã từng tường thuật về một vị Ẩn Tu đã tự xiềng chân mình vào một sợi xích sắt để nhắc nhủ mình là phải trung thành triệt để với nơi tu hành của mình, chứ không được chiều theo tính lông bông tự nhiên của một con người cứ thích nay đây mai đó. Khi nghe biết thế, thánh Phụ Benedictus đã sai một Đan Sĩ đến với vị Ẩn Tu và nói với ngài: “Nếu thầy hoàn toàn thuộc về một mình Thiên Chúa, thì thầy không cần phải xiềng chân mình vào sợi xích sắt như thế, nhưng thầy hãy xiềng mình vào sợi xích Đức Kitô”.[5] Nghe xong những lời khuyên bảo khôn ngoan này của thánh Benedictus, vị Ẩn Tu đã không còn xiềng chân mình vào xích sắt nữa, và tuy thế thầy vẫn không bao giờ rời khỏi túp lều của mình.

Thánh Phụ Benedictus chỉ muốn cho các Đan Sĩ của Dòng ngài luôn trung thành bền đỗ, luôn có sự xác tín nội tâm hoàn toàn tự nguyện với Đan Viện của mình. Mục đích mà thánh nhân nhằm tới là trong mọi sự người Đan Sĩ phải hành động vì tình yêu, chứ không vì sợ hãi, và sự nên thánh hằng ngày không được dừng lại trong giới hạn bổn phận bắt buộc, nhưng trở thành như bản tính nội tại của người Đan Sĩ.[6] Dĩ nhiên, để đạt tới được mức độ đó, đương sự phải nỗ lực ra sức tập luyện mỗi ngày trong “xưởng thợ” của Đan Viện. Ngoài ra, người Đan Sĩ còn cần phải biết can đảm hy sinh nhiều thứ khác nữa, mà bản tính tự nhiên của con người thường hay ước muốn và tìm kiếm, hầu để tâm trí thầy hoàn toàn được rảnh rang, không bị ràng buộc vào bất cứ những gì thuộc hạ giới nữa, mà chỉ thẳng hướng bay về hiệp nhất với Thiên Chúa trong tâm tình cầu nguyện chiêm niệm đầy sâu lắng và luôn nỗ lực thực thi thánh ý Người.

Chính nhờ vào sự trung thành bền vững vĩnh cư trong một nơi chốn nhất định, trong Đan Viện, của các Đan Sĩ như thế, các Đan Viện trong Giáo Hội trở thành dấu chỉ của chốn vĩnh cư lý tưởng, trở thành dấu chỉ của sự bền bỉ trung thành sống Lời Chúa của các tâm hồn muốn tìm kiếm Chúa trong một thế giới đầy ồn ào giao động về mọi lãnh vực.

V. SỰ RAO GIẢNG TRONG THINH LẶNG


Khi Đan Viện Montecassino được thánh Benedictus thành lập vào khoảng năm 529 và đã trở thành trung tâm văn hóa, khai hóa cho mọi tầng lớp dân chúng vào thời bấy giờ; vâng, một ngôi trường cho các thế hệ tương lai đã được hình thành, thì cũng chính là lúc trường Triết học ở Athen/Hy Lạp hoàn toàn đóng cửa và giải thể, chấm dứt nền giáo dục thời cổ đại.

Dĩ nhiên, điều đó không muốn nói rằng thánh Benedictus đã đưa ra một chương trình giáo dục quy mô, trên thực tế thánh nhân chỉ muốn thiết lập “ngôi trường phụng sự Chúa” mà thôi. Và ngôi trường phụng sự Chúa của thánh Benedictus không chỉ dành riêng cho các Đan Sĩ, nhưng còn cho tất cả dân chúng sống chung quanh các Đan Viện nữa. Nhà văn người Áo Hermann Bahr đã hoàn toàn có lý khi ông phát biểu: “Chúng tôi đã học biết được (từ các Đan Sĩ Benedictus) các lễ giáo, phong tục tập quán tốt trong gia đình và phong cách sống cho phải đạo”.[7]

Vào thời Trung Cổ các Đan Viện chính là những ngôi trường quan trọng nhất trong việc đào tạo, dạy dỗ và truyền bá văn hóa cho toàn vùng kế cận chung quanh Đan Viện. Vì thế, trong các Đan Viện, ngoài nhà thờ ra thì thư viện là gian phòng quan trọng nhất, và thường được sử dụng làm các trường lớp để dạy học cho các con em trong vùng. Chính Maurus và Placidus là hai thiếu niên được cha mẹ các em giao phó cho thánh Benedictus giáo dục, và cả hai đã trở nên những Đan Sĩ thánh thiện, vâng, đã trở nên hai vị thánh của Giáo Hội.

Ngay trong khởi đầu thời Tân Đại, qua các công trình nghiên cứu hoàn toàn trong âm thầm, vô vị lợi và đầy vất vả của họ, các Đan Sĩ của các Dòng Chiêm Niệm đã đóng góp không nhỏ vào kho tàng văn hóa nhân loại. Vì chính Đức Viện Phụ Tarrisse, Bề Trên Cả (1630-1648) của Dòng Benedictus Cải Cách Saint-Maure, có trụ sở chính tại Đan Viện Saint-Germain-des-Prés ở Paris, đã sáng suốt nhìn nhận rằng tình trạng vô hiểu biết và được giáo dục nửa vời là một điều nguy hiểm nhất cho đời sống Đan Tu và vì thế ngài đã hết sức động viên và đòi buộc các Đan Sĩ của ngài phải có được một vốn liếng học vấn đầy đủ.

Như vậy, chúng ta thấy rằng chính trong sự thanh vắng của các Đan Viện đã phát sinh một truyền thống giáo dục rất thành công, và nhất là sứ mệnh của hàng trí thức từng đã được các Đan Sĩ đào tạo, lại tiếp tục đem vốn liếng văn hóa và tri thức mà họ đã tiếp thu được truyền bá cho các thế hệ trẻ nối tiếp. Và cứ thế, nền văn hóa từ các Đan Viện tiếp tục được lan tỏa ra khắp mọi vùng miền, và qua đó tinh thần Phúc Âm đến được với mọi tầng lớp dân chúng. Chính thánh Benedictus khi còn sinh thời cũng đã được các mục đồng tìm đến với ngài trong sự thanh vắng của Đan Viện Subiaco và ngài đã dạy cho họ về cuộc sống đạo đức; ngài đã ban cho họ lương thực sự sống thiêng liêng tinh thần. Sau đó, ở Đan Viện Montecassino thánh Benedictus cũng đã hoán cải được rất nhiều người đã từng thờ ngẫu tượng của các dân ngoại. Ngày nay, trong một hang đá tại Đan Viện Subiaco, người ta còn đọc thấy trên một tấm bảng hàng chữ: “Ở chỗ này, qua việc ngài dạy dỗ các chú mục đồng, thánh Benedictus đã liên kết công việc Tông Đồ với đời sống ẩn dật Đan Tu. Đó là con đường lưỡng diện mà vô số các con cái thánh nhân sẽ tiếp tục bước đi”. Thánh Gregorius le Grand đã đề cử Đan Sĩ Augustinus sang truyền giáo tại Anh quốc và ngài còn truyền chức Linh Mục và Giám Mục cho các Đan Sĩ và giao phó cho họ sứ mệnh truyền giáo của Giáo Hội.

Còn tại Đức quốc thì một trong các sứ giả truyền bá Tin Mừng nổi danh nhất là thánh Bonifatius, qua đời năm 754, vốn là một Đan Sĩ có lòng kính sợ Chúa mãnh liệt và thương yêu các linh hồn sâu xa. Cùng cộng tác với ngài dĩ nhiên còn có các nam nữ Đan sĩ khác nữa. Bên cạnh thánh Bonfatius còn có thánh Đan Sĩ Ansgar, qua đời vào khoảng 865, ngài đã liên kết giữa đời sống Đan Tu và các hoạt động Tông Đồ với khẩu hiệu: “Intus monachus, foris apostolus” (Trong nội vi hoàn toàn là Đan Sĩ, ra bên ngoài hoàn toàn là Tông Đồ).

Tuy nhiên, tinh thần chiêm niệm Đan Tu, nghĩa là tinh thần cầu nguyện, luôn phải là kim chỉ nam, là ngọn hải đăng soi sáng và hướng dẫn cho mọi hoạt động của người Đan Sĩ, kể cả trong trường hợp đặc biệt phải đảm nhận những hoạt động Tông Đồ trong các xứ đạo. Vì những hoạt động Tông Đồ mà thiếu đời sống cầu nguyện kèm theo, thì cũng tương tự như một cái xác không hồn, như một pho tượng đá không có sức sống bên trong.

VI. SỰ PHÁT TRIỂN VÀ SỰ KHỞI ĐẦU MỚI


Mặc dầu đời sống trong các Đan Viện luôn được hướng dẫn theo Tu Luật của Dòng, nhưng các Đan Sĩ cũng vẫn là những con người có xác thịt bình thường như bao người khác, vì thế cuộc sống trong Đan Viện luôn cần có sự tác động, luôn cần có sự canh tân đổi mới, nếu không muốn nói là luôn cần có “tinh thần cách mạng” của Phúc Âm.




Đó là lý do của những phong trào canh tân hay những khởi đầu mới trong lịch sử đời sống Đan Tu: Từ Benedictus sang Citeaux (Xitô) và rồi từ Citeaux sang Trappiste hay Citeaux Nhặt Phép,.v.v… Một khi cuộc sống cộng đoàn Đan Viện bị sa sút và đang trên đường biến tướng, thì nhất thiết cần phải được canh tân, phải được bắt đầu lại, theo đúng với chí ý Đấng sáng lập, theo đúng với tinh thần của các lời khuyên Phúc Âm. Vì thế, những phong trào canh tân ấy luôn được bắt đầu với tinh thần triệt để sống theo sát Tu Luật của Dòng: nhặt nhiệm, sốt sắng và hăng hái. Một sự khởi đầu như thế luôn gây được sự hứng khởi và có sức lôi cuốn mãnh liệt nơi tâm hồn các Đan Sĩ liên hệ cũng như nơi những người yêu mến đời sống chiêm niệm Đan Tu, và vì thế tạo nên được những ấn tượng và ảnh hưởng tốt trong các cộng đoàn giáo dân sống gần xa chung quanh các Đan Viện.

Từ đó cộng đoàn Đan Viện bắt đầu phát triển qua các sinh hoạt của đời sống Đan Tu cũng như các công trình xây dựng cơ sở vật chất bên ngoài. Đặc biệt nhất là các giờ Kinh Nguyện và các nghi thức Phụng Vụ của Đan Viện được cử hành một cách long trọng, hoành tráng và sốt sắng. Và dĩ nhiên, Đan Viện cũng lần hồi cần phải tham gia vào các sứ mệnh trong Giáo Hội cũng như trong xã hội, theo giới hạn mà đời sống Đan Tu chiêm niệm cho phép. Vì thế, vào thế kỷ VIII hầu hết các Đan Viện và Tu Viện trong Giáo Hội đều lấy Tu Luật thánh Benedictus làm nền tảng cho các bản Nội Quy và Hiến Pháp của mình.

Ở Đan Viện Cluny, dưới sự hướng dẫn của Đức Viện Phụ Berno Baume, vốn là một Đan Sĩ sống rất nhặt nhiệm, các Đan sĩ đã bắt đầu nỗ lực sống hoàn toàn đúng với tinh thần Tu Luật của thánh Phụ Benedictus. Và từ Chuny hương thơm đời sống Đan Tu đạo đức của các Đan Sĩ lan tỏa ra khắp nơi trong vùng, rồi cả nước Pháp và dần dà khắp cả Giáo Hội. Sau đó đến đời Đức Viện Phụ Odo thì Đan Viện Chuny đã trở thành Đan Viện Mẹ của phong trào canh tân đổi mới đời sống Đan Tu, đúng theo tinh thần Tu Luật Benedictus, và trải qua hai thế kỷ liền, tinh thần Đan Tu Chuny đã gây nên một ảnh hưởng sâu xa trong toàn Giáo Hội cũng như trong toàn đế quốc. Đó là tinh thần cầu nguyện trong thanh vắng.

Các Đấng kế nhiệm Đức Viện Phụ Odo cũng vẫn tiếp tục thực thi và sống triệt để tinh thần cầu nguyện trong thanh vắng. Và từ đó hầu như tất cả các Đan Viện ở Pháp đều xin gia nhập Hội Dòng Cluny. Nhà thờ Đan Viện trở thành ngôi thánh đường vĩ đại vào bậc nhất Âu châu. Tinh thần canh tân Cluny đã thổi vào trong đời sống Giáo Hội một luồng sinh khí mới, đặc biệt qua nỗ lực kiến tạo “sự an bình trong Chúa”, và nhờ thế, các tranh cãi và đố kỵ của tầng lớp trưởng giả và quý tộc bị dập tắt hoàn toàn. Đức Gregorius VII, vị Giáo Hoàng của đại canh tân, tuyên bố trong một bài phát biểu của ngài vào năm 1080 rằng: Đan viện Cluny, dưới sự dìu dắt của các vị Viện Phụ thánh thiện, đã đạt tới được sự hoàn hảo thánh thiện cao vời và đã làm cho tất cả các Đan Viện bên kia dải núi Alpen thêm lòng nhiệt thành phụng sự Chúa. Bởi vậy, Đan Viện Cluny đã trở thành tâm điểm không chỉ trong Giáo Hội mà cả trong toàn thế giới nữa.

Nhưng các Đan Sĩ Cluny cũng chỉ là những con người có đầy đủ mọi tính chất nhân loại như bao người khác, nên khi Đan Viện đã đạt tới được đỉnh cao sự ngưỡng mộ của mọi tầng lớp trong và ngoài Giáo Hội, thì cũng chính là lúc tinh thần Đan Tu của Cluny bắt đầu đi xuống. Thay vì tinh thần đời sống Đan Tu tiếp tục ảnh hưởng được xã hội, thì tinh thần thế tục lại dần dà thâm nhập vào đời sống Đan Tu của các Đan Sĩ, khiến cho các Đan Sĩ không còn sốt sắng mộ mến đời sống Kinh Nguyện trong thanh vắng của họ nữa, nhưng ai nấy đua đòi sống và hành động theo thói đời, tìm kiếm sự khen tặng và vinh hoa của người đời.

Đó là lý do phát sinh tinh thần Citeaux do ba Đan Sĩ thánh thiện của Cluny khởi xướng là Roberto Molesme, Albericus và Stephan Harding. Vì muốn sống đúng với tinh thần chiêm niệm trong thanh vắng của thánh Phụ Benedictus, các ngài đã cùng nhau tìm vào Citeaux, một vùng đất hoàn toàn hoang vu, hẻo lánh và nghèo nàn vào lúc bấy giờ, để thiết lập một cuộc sống Đan Tu mới. Việc thành lập Đan Viện Citeaux với tinh thần canh tân cũng là một dấu hiệu phản đối và chối bỏ một Cluny giàu có, sang trọng và bị ảnh hưởng tinh thần thế tục.

Bởi vậy, các Đan Sĩ Citeaux đã nỗ lực triệt để sống đúng Tu Luật Benedictus theo nghĩa đen: hoàn toàn sống đơn sơ và thanh bần. Các Đan Sĩ thực thi sát khẩu hiệu của Dòng: “Ora et Labora” – “cầu nguyện và lao động”, là tự sinh sống bằng sức lao động của mình, chứ không nhận các biếu tặng này nọ của người đời. Cách sống xa hoa và xuống dốc của Cluny cũng như trong Giáo Hội vào thời bấy giờ đã khiến thánh Bernardus Claivaux phải ngậm ngùi thốt lên: “Giáo Hội thì huy hoàng rực rỡ bằng những bức hoành phi câu đối quý giá, nhưng lại đói khát trong những người nghèo khổ”.

Nhưng rồi dần dà, đến lượt các Đan Sĩ Citeaux cũng lại rơi vào cái vòng luẩn quẩn, lại giẫm lên vết chân các anh em Đan Sĩ của họ trước kia ở Cluny. Với thời gian, các Đan Sĩ Citeaux lại trở nên giàu có: Toàn bộ Đan Viện, từ nhà thờ tới nhà ở và các phòng ốc khác của các Đan Sĩ, được xây dựng một cách hoành tráng sang trọng. Còn đời sống chiêm niệm cầu nguyện lại bị sao nhãng. Đó lại là lý do khiến Đan Sĩ Citeaux Rancé thành lập vào năm 1664 Đan Viện La Trappe, để quay lại sống đúng tinh thần nguyên thủy của Citeaux, đặc biệt là triệt để thực thi sự thinh lặng Đan Tu. Và từ đó, mới có tên xưng mới là Trappiste, hay Citeaux Cải Cách, hay Citeaux Nhặt Phép.

Qua đó, chúng ta thấy rằng trong suốt dòng lịch sử của lối sống Đan Tu, hầu như tất cả các Đan Viện đều đã không học thuộc bài học lịch sử là một khi đã phát triển và đạt tới được một đỉnh cao nhất định và gây được ảnh hưởng tinh thần sâu xa trên xã hội thế tục, thì lần hồi lại bị tinh thần thế tục chi phối và thao túng. Nói rõ hơn, các Đan Viện đã không tránh được cái vòng luẩn quẩn là một khi đã đạt tới đỉnh cao của ơn gọi chiêm niệm của mình, thì tiếp đến là giai đoạn “sa chước cám dỗ”, rơi vào vòng xoáy mãnh liệt của thế tục và rồi lại vùng đứng lên và quay trở về với lý tưởng Đan Tu thủa ban đầu của mình qua sự khởi xướng can đảm của một số Đan Sĩ nhiệt thành và luôn gắn bó với lý tưởng ấy. Vâng, Người ta có thể gọi đó là biện chứng của đời sống tu trì nói chung và ơn gọi chiêm niệm Đan Tu nói riêng.

VII. ĐỜI SỐNG ĐAN TU: SỨC SỐNG CỦA GIÁO HỘI

Cuộc sống chiêm niệm Đan Tu luôn phải đối mặt với sự phê bình chỉ trích và chống đối từ nhiều phía, kể cả từ phía một số Kitô hữu.

Từ lý do tôn giáo: Martin Luther (nhà cải cách Tin Lành ở Đức) đã cho rằng, đời sống Đan Tu chiêm niệm trong Giáo Hội Công Giáo là một lối sống “phản Kitô giáo tai hại, vô đạo, nặc mùi Do Thái, nặc mùi ngoại giáo”, vì nó cậy dựa vào việc làm của riêng mình, chứ không cậy dựa vào một mình ân sủng Thiên Chúa và công trình cứu chuộc của Đức Kitô.[8]

Chính một số ít các tín hữu Công Giáo, giáo dân cũng như Giáo sĩ, cũng cho rằng đời sống các Đan Sĩ chỉ giam mình trong Đan Viện thì quá thụ động nhàn rỗi và không hiệu quả, vì chỉ cầu nguyện một mình mà thôi, chứ không có hành động hay việc làm Mục Vụ hay Tông Đồ cụ thể đi kèm theo.

Từ lý do duy lý: Các nhà tư tưởng của Thế Kỷ Ánh Sáng (thế kỷ XVII- XVIII) thì gắt gao kết án đời sống Đan Tu là không chỉ hoàn toàn vô ích lợi, mà còn có thể trở thành mối đe dọa nguy hiểm cho sự phát triển của xã hội nhân loại nữa.

Nhưng rồi không lâu sau khi tất cả các Đan Viện bị đóng cửa và các Đan Sĩ bị ép buộc hồi tục trong thời kỳ tục hóa (Säkularisation), như vào thời Napoléon chẳng hạn, thì người ta mới nhận chân được rằng quả thực đời sống Đan Tu rất cần thiết cho nhân loại như thế nào, chẳng hạn qua các hoạt động giáo dục sư phạm và từ thiện bác ái của, nhưng nhất là đời sống Đan Tu là kho tàng vô giá cho toàn thể thế giới Kitô giáo nói chung và cho đời sống Giáo Hội nói riêng qua việc ngày đêm sống và thực hành triệt để tinh thần Phúc Âm và sứ mệnh tìm kiếm Thiên Chúa của các Đan Sĩ.

Bởi vậy, ngay trong các Giáo Hội Kitô giáo Cải Cách thuộc thế kỷ chúng ta ngày nay, các Cộng Đoàn và các Đan Viện đã được thành lập để tìm cách “sống và hiện thực phần nào cuộc sống các Cộng Đoàn Kitô hữu tiên khởi” như chính Thầy Roger Schutz, người Sáng Lập và Bề Trên cộng đoàn Đan Tu Taizé ở Pháp nhận định: “Thực ra, người ta có thể tìm gặp lối sống chiêm niệm Đan Tu trong hầu như tất cả các tôn giáo trên khắp thế giới”. Raimon Pannikar, một nhà nghiên cứu chuyên ngành về các tôn giáo, đã viết trong cuốn “Den Mönch in sich entdecken” về tính chất Đan Tu nguyên thủy phổ quát. Qua đó, ông muốn nói lên rằng: tận trong thâm cung tâm hồn mỗi người chúng ta đều chứa ẩn niềm khao khát sự hiệp nhất, và vì thế luôn khao khát một sự đơn giản bình dị để vượt lên trên sự đa phức lệch lạc và những mâu thuẫn trong cuộc sống xã hội cụ thể. Ông đề cập tới hai thái độ cơ bản của con người muốn đưa dẫn toàn bộ thực tại quay trở lại hiệp nhất với nhau và muốn cảm nhận được thực tại như là một sự đa phức của những yếu tố bất khả hiệp nhất với nhau.

Đời sống các Đan Sĩ là một dấu chỉ và là một lời phát biểu hùng hồn nói lên niềm khao khát sự hiệp nhất ấy. Các Đan Sĩ chân chính luôn tìm kiếm cho đời mình một ý nghĩa đích thực, một điều quan trọng duy nhất, và vì điều quan trọng duy nhất ấy họ đã sẵn sàng đánh đổi tất cả, sẵn sàng cắt đứt tất cả mọi ràng buộc; họ sẵn sàng bỏ tất cả mọi sự lại phía sau.

Dĩ nhiên, các Đan Sĩ sẽ sai lầm, nếu như họ coi thế giới riêng tư của mình như là một thế giới phổ quát, vâng, như là một thế giới cho hết mọi người, cũng như nếu họ vì sự đơn sơ giản dị đáng yêu kia mà tìm cách phủ nhận hay bỏ quên sự đa phức của thực tại. Người Đan Sĩ đừng quên rằng cuộc sống Đan Tu không phải là sự chạy trốn thế gian, nhưng là nhằm mang lại cho thế gian nguồn sống chân chính qua sự chiêm niệm cầu nguyện của mình. Họ đi tìm kiếm Chúa và mang ơn Chúa đến cho các tâm hồn qua đời sống cầu nguyện chiêm niệm của mình. Đó là huyền nhiệm của đời sống Đan Tu: Sống xa đời, chứ không phải bỏ đời. Sống giữa đời, chứ không phải đồng hóa với đời.

Tuy các Đan Sĩ sống trong một thế giới khép kín của một Đan Viện, nhưng hương thơm đạo đức của đời sống Đan Tu cũng như cung điệu du dương của các giờ Kinh Nguyện của họ là nét duyên dáng đáng yêu, là sức mạnh vô hình lôi kéo các tâm hồn đến với họ trong Đan Viện, để quên đi những nhọc nhằn và những ồn ào của thế sự, của cuộc sống kim tiền và để thông công Kinh Nguyện chiêm niệm với họ. Và với sự tiếp cận qua Kinh Nguyện hay qua các buổi tĩnh tâm cấm phòng với các Đan Sĩ trong khung cảnh thanh vắng của Đan Viện, người ta sẽ khám phá ra được cuộc sống Đan Tu chiêm niệm của các Đan Sĩ là đi tìm kiếm sự hiệp nhất với Thiên Chúa. Ngược lại, qua sự gặp gỡ với các tâm hồn, các Đan Sĩ sẽ tiếp nhận và cảm thông được thực tại đa phức của cuộc sống trần thế và đem liên kết với lời cầu nguyện của mình.

Như thế, nỗ lực tìm kiếm hiệp nhất với Thiên Chúa của các Đan Sĩ trong Kinh Nguyện chiêm niệm không hề nhuộm màu ích kỷ hay là một hình thức sống nhạt nhẽo và trống rỗng, nhưng là những Kinh Nguyện chất chứa tràn đầy thực tại. Nói cách khác, qua Kinh Nguyện chiêm niệm của mình, các Đan Sĩ không hề đến với Chúa lẻ loi một mình, nhưng họ mang theo mọi ý nguyện của tất cả mọi anh chị em của họ. Đó là lý do tại sao các Đức Giáo Hoàng gần đây, từ thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, đến Đức Benedicto XVI và đương kim Giáo Hoàng Phanxicô đều luôn đề cao, cổ xúy và ca ngợi đời sống Thánh Hiến Đan Tu là kho tàng quý báu và là sức sống của Giáo Hội.


Ghi chú:


[1]Franz Xaver Sieber, Jesus Christus der wahre lebendige in die ewigen Lichtwohnungen führende Lichtern – Ein Lehr – und Gebetbuch für Katholische Christen, Augsburg 1845, Verlag Anton Herzog, tr. 585, IV.

[2]Die Mönche in der Wüste, Fokolar-Bewegung: www.focolare.org/de/news/2015/…/i-monaci-del-deserto/

[3]Hans-Günther Kaufmann & Odilo Lechner, Kraft der Stille, München 2001, Verlag Pattloch, tr. 8.

[4] Ibid., tr. 9.

[5] Ibid., tr. 10.

[6]Xin xem Tu Luật thánh Benedictus chương nói về Đức Khiêm Nhường

[7]Hans-Günther Kaufmann & Odilo Lechner, Kraft der Stille, München 2001, Verlag Pattloch, tr. 10.

[8]x. Hellig 3 kong 7: www.martinluther.dk/h3kong7.htm